PHẨM TÍNH BẬC CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC

Bài viết này là phần 1 trong loạt 7 phần của CHƯƠNG I: BẬC CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC

PHẨM TÍNH BẬC CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC

Dù rộng lớn đến đâu, biển cũng bị giới hạn bởi đáy biển mặt biển và những ngọn núi Cakkavala vây quanh. Nhưng ba la mật Bố thí (dāna pāramī) mà Bồ Tát (vị Phật tương lai) vun bồi chẳng có giới hạn. Tài sản quý báu, những bộ phận cơ thể, thậm chí đến mạng sống Bồ Tát đã cho đi trong vô lượng kiếp, thật chẳng thể nghĩ bàn. Bồ Tát cũng đã vun bồi ba la mật về giới hạnh, tinh tấn… (sīla pāramī, viriya pāramī…) cao dày như thế ấy.

Là vua ở tuổi 16, Bồ Tát đã hàng ngày bố thí thực phẩm với 600.000 đồng tiền. Ngài tặng con voi trắng có khả năng làm mưa cho xứ Setuttarā đang bị hạn hán, mặc dù dân trong nước kịch liệt phản đối. Việc này khiến Ngài bị đày đến Vankagiri. Và tại nơi này, vua đã tặng con trai và con gái của mình cho vị bà la môn già Jujaka, người muốn dùng hai đứa trẻ này làm nô lệ. Bồ Tát cũng cho vua Đế Thích vợ của mình. (Đế Thích hóa làm vị bà la môn và hỏi xin vợ của Bồ Tát để thử lòng). Đó là kiếp sống của Bồ Tát trước khi tái sinh vào cõi trời Đâu Xuất (Tusita), chờ đợi tái sinh kiếp cuối cùng ở cõi người và trở thành Phật.

Vào những trưa hè gay gắt, người ta bơi lội đùa giỡn trong lòng hồ sâu. Khi thỏa thích lặn ngụp trong nước mát, người này không để ý đến cái nóng rát bỏng từ trời cao. Cũng thế ấy, với lòng đại bi không thể nghĩ bàn, vị Phật tương lai lặn sâu vào biển cả ba la mật để mưu cầu hạnh phúc cho kẻ khác. Đầy ắp lòng bi mẫn thương xót chúng sinh, Bồ Tát không cảm thấy đau đớn khi bị cắt tay, cắt chân bởi những kẻ tàn bạo.

Vị Phật tương lai khởi lòng đại bi, xót thương chúng sinh khi chứng kiến họ bị hành hạ bởi sinh – già – bệnh – chết, đau khổ vì tìm kiếm miếng ăn, thương tích và tật nguyền, đau khổ vì bị giết chóc, tù đày và đau khổ trong bốn cõi khổ. Với lòng bi mẫn, Bồ Tát sẵn sàng chịu đựng những hành hạ tàn bạo nhất (bị cưa tay, chặt chân, cắt tai…) do những kẻ ngu dốt gây ra. Lòng Ngài vẫn chan chứa tình yêu thương đối với những kẻ ấy:

“Vì tạo ra những tội ác này, nên hậu quả nghiêm trọng đang chờ đợi họ. Chỉ với sức chịu đựng và lòng bi mẫn, ta mới có thể cứu họ. Nếu ta hãm hại những kẻ bạo tàn, ta cũng bạo tàn chẳng khác chi họ. Vậy ta có thể làm gì để giải thoát chính mình và cả họ ra khỏi vòng sinh tử? Ta sẽ chịu đựng, nhận lấy những hành động tàn ác sai lầm này, rồi với lòng từ và tâm bi làm phương tiện dẫn đường, ta sẽ vun bồi ba la mật và thành tựu tuệ Toàn Giác của vị Phật Toàn Giác. Chỉ khi thành Phật, ta mới có thể cứu độ chúng sinh khỏi những đau khổ”.

Trong Buddhapadana thuộc Apadana, người chưa là Bồ Tát và có ý nguyện thành Phật phát nguyện thành Phật trong tâm trước sự chứng giám của vô số vị Phật trong quá khứ. Nguyện ước thành Phật, người này vun bồi vô số phước báu trong vô lượng kiếp. Đến khi hội đủ tám yếu tố để trở thành Bồ Tát 1Tám yếu tố để được thành Bồ Tát: kiếp đó phải là: (1) người, (2) nam giới, (3) có đầy đủ khả năng trở thành A La Hán, (4) gặp Đức Phật hiện tiền, (5) là đạo sĩ có đức tin nơi nghiệp quả, (6) đắc các tầng thiền (sắc giới hay vô sắc giới) và có thần thông, (7) hy sinh vị tha không kể mạng sống của mình, (8) muốn trở thành Phật. (như đạo sĩ Sumedha), người này phát nguyện trước mặt vị Phật trong hiện tại:

“Với những phước báu mà con đã tích lũy vun bồi, con sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình để trở thành vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Nguyện cho con sẽ có được tuệ Toàn Giác của chư Phật Toàn Giác (Chánh Đẳng Chánh Giác) để cứu độ chúng sinh”.

Đến đây, thề nguyện thành Phật của người này viên mãn. Người này được Đức Phật hiện tại thọ ký trở thành vị Phật tương lai và từ đây, vị này chính thức trở thành Bồ Tát.2The Great Chronicles of the Buddhas, page 14 (vol I, Singapore edition).

Theo Nidanakatha thuộc chú giải Cariya Pitaka, khi chính thức thành Bồ Tát, người này liên tục vun bồi ba la mật Hy sinh – Giới hạnh (pāramīcāgacariya) để thành tựu tuệ A La Hán đạo (Arahantamagga ñāṇa) và tuệ Toàn Giác (Sabbaññuta ñāṇa). Vị Phật tương lai chỉ có thể giác ngộ sau khi vun bồi ba la mật (pāramī) 310 pāramī (ba la mật): Dāna (bố thí, ban cho), Sīla (giới hạnh), Nekkhama (từ khước, xuất gia), Paññā(trí tuệ), Viriya(tinh tấn, kiên trì bền chí), Khanti (kham nhẫn), Sacca (chân thật), Adhiṭṭhāna (quyết tâm dũng mãnh), Mettā (tâm từ) và Upekkhā (tâm xả)., bố thí bộ phận trong thân thể hay thân mạng cho người khác (cāga) và trau dồi giới hạnh (cariya). 4Cāga (Mahāpariccāga): đại bố thí, buông xả, hay ban bố năm loại: tài sản, vợ, con, các bộ phận cơ thể và mạng sống của chính mình. Cariya là phát triển giới hạnh vì lợi lạc của tất cả chúng sinh (lokattha cariya), của chính mình và quyến thuộc (natattha cariya) và để thành tựu quả vị Phật (Buddhattha cariya).

Khó có Đức Phật ra đời trên thế gian

Một thuở nọ, khi đến thành Vương xá (Rājagāha), lần đầu tiên ông Cấp Cô Độc (Ānathapinṇḍika) được nghe danh từ “Đức Phật” từ người em rể, ông thốt lên: “Ghoso’pi kho eso gahapati dullabho lokasmim yadidam ‘buddho buddho’iti”. (Này em, hiếm khi chúng sinh trên thế gian này được nghe danh từ “Đức Phật”).

Khi Đức Phật trú tại tỉnh Apana thuộc xứ Anguttaripa, vị bà la môn trưởng (tên Sela) được nghe danh từ “Đức Phật” từ đạo sĩ Keniya. Ông thốt lên: “Này bạn, hiếm khi chúng sinh trên thế gian này được nghe danh từ Đức Phật!”.

Hiếm khi chúng sinh được nghe danh từ “Đức Phật” và hiếm hoi hơn nữa là sự ra đời của Đức Phật trên thế gian này. Chỉ trong một khoảng thời gian nhất định ngắn ngủi, Ngài ra đời ở một thế giới 5Một thế giới gồm có 31 cảnh giới, với ngọn Meru ở giữa và bốn châu lục Đông, Tây, Nam, Bắc ở bốn bên. Và theo Phật giáo, có đến 10,000 thế giới như thế hiện hữu. nào đó. Có những thế giới chư Phật chẳng bao giờ xuất hiện và chúng sinh nơi đó không bao giờ gặp được Ngài. Trong vòng luân hồi vô tận, sự ra đời của Ngài trên thế gian ví như ánh chớp xuất hiện trên bầu trời rồi vụt tắt.

Trí tuệ siêu việt của chư Phật

Theo kinh Sīhanāda Sutta trong Dasaka-Nipāta thuộc Aṅgutara Nikāya, Đức Phật có 10 tuệ (Dasabala ñāṇa):

  1. Thāna-atthāna ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết điều gì có thể xảy ra và không thể xảy ra (như tiến trình thụ thai, mà mãi đến khi khoa học tiến bộ mới khám phá ra…).
  2. Kammasamādānavipāka ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết quả sinh ra do các nghiệp lực tạo ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
  3. Sabbatthagāminī patipadā ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết các cảnh giới, danh sắc, đặc tính vô thường, khổ, vô ngã và con đường đưa đến giải thoát. 6Tuệ này được hiểu hai cách: 1. Nhóm năm loại tuệ hiểu biết liên quan đến các cảnh giới, gồm: nơi tái sinh, việc gì xảy ra, sự sinh khởi, sự kéo dài và sự chấm dứt của của tâm. 2. Nhóm gồm năm loại tuệ: a) tuệ biết các cảnh giới nơi chúng sinh có sắc (rūpa) và các cảnh giới nơi chúng sinh chỉ có tâm, b) tuệ biết sự sinh khởi của tâm – vật chất, c) tuệ biết bản chất vô thường, khổ và vô ngã của tâm – vật chất, d) tuệ biết bản chất liên tục thay đổi của tâm -vật chất và e) tuệ biết sự tận diệt của tâm – vật chất (Niết Bàn).
  4. Anekadhātu nānādhātu loka ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết những yếu tố (18 yếu tố…) khác nhau trong thế giới.
  5. Nānādhimuttikatā ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết sự hướng tâm (manasikāra) của chúng sinh.
  6. Indriya paropariyatta ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết căn cơ cao thấp của chúng sinh. 7Hiểu biết căn cơ cao thấp có nghĩa là hiểu biết năm căn, Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ, của chúng sinh này đã trưởng thành, chín muồi và có khả năng đắc đạo quả hay chưa. Qua đó, Ngài biết cách giảng pháp thích hợp và đúng thời giúp cho năm căn này lớn mạnh để đắc đạo (theo The Discourse on the Hemavata Sutta, by Mahasi Sayadaw).
  7. Jhānādi saṁkilesa vodānavutthāna ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết các tầng thiền định, sự định tâm (jhāna, samādhi, samapatti) và tâm thoát khỏi ô nhiễm (vimukkha) do chứng đắc các tầng thiền Sắc giới, Vô Sắc giới hoặc do chứng đắc Đạo quả.
  8. Pubbenivāsa ñāṇa: Trí tuệ nhớ lại vô số kiếp trong quá khứ (túc mạng minh)
  9. Dibbacakkhu ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết bằng thiên nhãn thông chúng sinh ra đi và tái sinh theo nghiệp của họ. 8Vào lúc sắp thành Phật, Bồ Tát ngồi thiền và có được thiên nhãn thông thấy hình tướng của chúng sinh ở các thế giới xa gần và thấy cảnh giới mà chúng sinh sẽ tái sinh sau khi chết. Khi thành Phật, với thiên nhãn thông của vị Phật Toàn Giác, Ngài thấy rõ 31 cảnh giới. (theo The Discourse on the Hemavata Sutta, by Mahasi Sayadaw).
  10. Āsavakkhaya ñāṇa: Trí tuệ hiểu biết sự tận diệt mọi phiền não (Arahanta maggana ñāṇa).

Khả năng làm cho mọi chúng sinh nghe được lời giảng của Ngài

Khi Ngài giảng dạy cho riêng ai, chỉ có người ấy nghe được lời Ngài giảng. Khi Ngài muốn giảng cho nhiều người, dù ở thế giới nào thật xa xôi, các chúng sinh ấy đều có thể nghe được lời Ngài đang giảng. Trong khi ngài Xá Lợi Phất phải dụng thần thông để nhiều người có thể nghe được bài kinh Samacitta Sutta mà Đại đức giảng, Đức Phật không cần phải làm như vậy.

Đức Phật chỉ nghỉ hai giờ mỗi đêm

Đức Phật chỉ tắm sau khi hoàn tất bổn phận cần làm trong ngày. Tối đến, trong canh đầu (6:00 – 10:00), chư tăng tề tựu đảnh lễ Ngài. Sau đó, Ngài giảng Pháp và giải đáp những thắc mắc của chư tăng. Vào canh hai (10:00 tối – 2:00 sáng), Ngài giảng dạy cho chư thiên và Phạm thiên đến từ 10.000 thế giới để nghe Pháp và thỉnh Ngài giải đáp những thắc mắc. Những bài kinh như Maṅgala Sutta hay Parabhava Sutta được giảng vào canh hai. Ngài chia canh ba ra làm ba, thời gian đầu (2:00 – 3:00 sáng), Ngài đi kinh hành tới lui để thư giãn thân thể. Sau đó (3:00 – 5:00 sáng), Ngài vào hương phòng, nằm nghiêng người sang bên phải nghỉ ngơi trong chánh niệm và nhập đại định rải tâm từ đến các chúng sinh. Từ 5:00 – 6:00 sáng, Ngài ngồi xếp bằng, dùng Thiên nhãn quán xét thế gian xem ai có đủ ba la mật, có khả năng đắc đạo quả để Ngài tế độ.

GIẢI THÍCH:

Sự khác biệt giữa Bồ Tát (Bodhisatta) và Phật (Buddha):

Bồ Tát Đức Phật
– Chưa thành Phật

– Đang vun bồi Ba La Mật – Còn ô nhiễm trong tâm

– Còn tái sinh

– Đã thành Phật

– Đã vun bồi Ba La Mật đến mức hoàn hảo

– Chấm dứt ô nhiễm trong tâm

– Không còn tái sinh

Ba loại Bồ Tát

  1. Trí Tuệ (Paññādhika)

Với yếu tố trí tuệ vượt trội, vị Bồ Tát, người sẽ trở thành Đức Phật Trí Tuệ tương lai, cần vun bồi ba la mật trong bốn a tăng kỳ kiếp (asankheyya) và 100.000 đại kiếp trái đất (kappa). Đức Phật Thích Ca (Gotama Buddha) thuộc vào nhóm này.

  1. Đức Tin (Saddhādhika)

Với yếu tố đức tin vượt trội, vị Bồ Tát, người sẽ trở thành Đức Phật Đức Tin tương lai, cần vun bồi ba la mật trong tám a tăng kỳ kiếp và 100.000 đại kiếp trái đất.

  1. Tinh Tấn (Viriyādhika)

Với yếu tố tinh tấn vượt trội, vị Bồ Tát, người sẽ trở thành Đức Phật Tinh Tấn tương lai, cần vun bồi ba la mật trong 16 a tăng kỳ kiếp và 100.000 đại kiếp trái đất. Chư Phật Toàn Giác có được tuệ toàn giác hiểu biết mọi thứ (sabbaññutta ñāṇa).

Phật – Pháp – Tăng

  • Buddha”: là người biết tất cả, có được tuệ hiểu biết mọi thứ (sabbaññutta ñāṇa), là bậc A La Hán hoàn toàn thanh lọc mọi ô nhiễm trong tâm, không còn sinh tử nữa. Do vậy:
Ngài được gọi là: Iti pi so Bhagavā:
  1. Bậc A La Hán
  1. Arahaṁ
  1. Đấng Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ
  1. Sammāsambuddho
  1. Bậc có trí tuệ và phẩm hạnh hoàn hảo
  1. Vijjācaraṇasampanno
  1. Bậc nói lời chân chánh, đi đến nơi thanh tịnh
  1. Sugato
  1. Bậc thông suốt tam giới
  1. Lokavidū
6. Bậc có đức hạnh không ai sánh bằng, có khả năng tế độ người hữu duyên cần tế độ
  1. Anuttaro Purisadammasārathi
  1. Bậc Thầy của nhân loại và chư thiên
  1. Satthādevamanussānaṁ
  1. Đức Phật, bậc đã giác ngộ
  1. Buddho
  1. Đức Thế Tôn
9. Bhagavāti
  • Dhamma”: là giáo pháp mà Đức Phật giảng dạy (rất vi diệu, thâm sâu), là những gì có thật, đem đến lợi lạc cho chúng sinh, được rút ra từ những kinh nghiệm tu tập và trí tuệ của Ngài. (Đức Phật nói những điều Ngài làm và làm những điều Ngài nói). Giáo pháp mà Ngài giảng dạy bao gồm trong ba tạng kinh, giúp chúng sinh sống thiện lành, gặt hái hạnh phúc trần gian và siêu thế gian (Niết Bàn).
  • Saṅgha”:là các đệ tử của Đức Phật bao gồm tỳ khưu (bhikkhu) và tỳ khưu ni (bhikkhuni). Saṅgha gồm hai loại: Thánh (ariya) và phàm (puthujjana). Thánh tăng là người đã đạt được Thánh đạo, Thánh quả và kinh nghiệm Niết Bàn. Phàm tăng là người vẫn còn tu tập để đạt đạo quả. Chư tăng rất đáng tôn kính, là phước điền của chúng sinh.

Chú thích: Kappa: “Này các tỳ khưu, một đại kiếp (kappa) kéo dài lâu, lâu lắm. Ta chẳng thể tính được bằng năm, trăm năm, ngàn năm hay trăm ngàn năm” (Aṅguttara Nikāya IV).

“Này chư tỳ khưu, ví như có ngọn núi dài một yojana, rộng một yojana, cao một yojana, cứng đặc. Mỗi 100 năm, có một người dùng tấm vải xát vào ngọn núi này một lần. Cho đến khi ngọn núi này mòn, một đại kiếp vẫn chưa kết thúc. Hay ví như có một khu đất bao quanh bằng vách sắt dài một yojana, rộng một yojana, cao một yojana, chứa đầy ắp hạt mù tạt. Nếu mỗi 100 năm, một hạt mù tạt (mustard) được lấy ra, thì đến khi không còn hạt nào trong đó, một đại kiếp vẫn chưa kết thúc” (Saṁyutta Nikāya II).

Xem các bài khác cùng chương:BỐN ĐIỀU VI DIỆU >>
  • 1
    Tám yếu tố để được thành Bồ Tát: kiếp đó phải là: (1) người, (2) nam giới, (3) có đầy đủ khả năng trở thành A La Hán, (4) gặp Đức Phật hiện tiền, (5) là đạo sĩ có đức tin nơi nghiệp quả, (6) đắc các tầng thiền (sắc giới hay vô sắc giới) và có thần thông, (7) hy sinh vị tha không kể mạng sống của mình, (8) muốn trở thành Phật.
  • 2
    The Great Chronicles of the Buddhas, page 14 (vol I, Singapore edition).
  • 3
    10 pāramī (ba la mật): Dāna (bố thí, ban cho), Sīla (giới hạnh), Nekkhama (từ khước, xuất gia), Paññā(trí tuệ), Viriya(tinh tấn, kiên trì bền chí), Khanti (kham nhẫn), Sacca (chân thật), Adhiṭṭhāna (quyết tâm dũng mãnh), Mettā (tâm từ) và Upekkhā (tâm xả).
  • 4
    Cāga (Mahāpariccāga): đại bố thí, buông xả, hay ban bố năm loại: tài sản, vợ, con, các bộ phận cơ thể và mạng sống của chính mình. Cariya là phát triển giới hạnh vì lợi lạc của tất cả chúng sinh (lokattha cariya), của chính mình và quyến thuộc (natattha cariya) và để thành tựu quả vị Phật (Buddhattha cariya).
  • 5
    Một thế giới gồm có 31 cảnh giới, với ngọn Meru ở giữa và bốn châu lục Đông, Tây, Nam, Bắc ở bốn bên. Và theo Phật giáo, có đến 10,000 thế giới như thế hiện hữu.
  • 6
    Tuệ này được hiểu hai cách: 1. Nhóm năm loại tuệ hiểu biết liên quan đến các cảnh giới, gồm: nơi tái sinh, việc gì xảy ra, sự sinh khởi, sự kéo dài và sự chấm dứt của của tâm. 2. Nhóm gồm năm loại tuệ: a) tuệ biết các cảnh giới nơi chúng sinh có sắc (rūpa) và các cảnh giới nơi chúng sinh chỉ có tâm, b) tuệ biết sự sinh khởi của tâm – vật chất, c) tuệ biết bản chất vô thường, khổ và vô ngã của tâm – vật chất, d) tuệ biết bản chất liên tục thay đổi của tâm -vật chất và e) tuệ biết sự tận diệt của tâm – vật chất (Niết Bàn).
  • 7
    Hiểu biết căn cơ cao thấp có nghĩa là hiểu biết năm căn, Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ, của chúng sinh này đã trưởng thành, chín muồi và có khả năng đắc đạo quả hay chưa. Qua đó, Ngài biết cách giảng pháp thích hợp và đúng thời giúp cho năm căn này lớn mạnh để đắc đạo (theo The Discourse on the Hemavata Sutta, by Mahasi Sayadaw).
  • 8
    Vào lúc sắp thành Phật, Bồ Tát ngồi thiền và có được thiên nhãn thông thấy hình tướng của chúng sinh ở các thế giới xa gần và thấy cảnh giới mà chúng sinh sẽ tái sinh sau khi chết. Khi thành Phật, với thiên nhãn thông của vị Phật Toàn Giác, Ngài thấy rõ 31 cảnh giới. (theo The Discourse on the Hemavata Sutta, by Mahasi Sayadaw).
Chỉ mục