KINH SUKHUMALA
(Aṅguttara Nikāya III.38)
Này tỳ khưu, ta đã được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo, được chăm sóc nuôi dưỡng rất chu đáo và được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo nhất hạng. Tại hoàng cung, ba hồ sen được xây dựng cho ta: một hồ toàn sen xanh, một hồ toàn sen đỏ, một hồ toàn sen trắng nở rộ. Ta chỉ dùng loại trầm hương xứ Kāsi, mũ, áo khoác, y nội và khăn trên đầu đều làm bằng vải xứ Kāsi 1Theo Chú giải, Kāsi là một trong 16 tiểu bang ở Ấn Độ, có thủ đô là Bārānasi.. Ngày lẫn đêm, dù, lọng trướng che trên đầu ta để cái nóng, lạnh, sương, bụi và cỏ không lấm nhiễm thân ta.
Vua cha xây cho ta ba cung điện: một dùng trong mùa đông, một dùng trong mùa hạ, và một dùng trong mùa mưa 2Phía bắc Ấn Độ có ba mùa: mùa đông kéo dài từ tháng mười một đến tháng ba, mùa hạ kéo dài từ tháng ba đến tháng bảy, và mùa mưa kéo dài từ tháng bảy đến tháng mười một. Cung điện mùa đông có chín tầng, được xây thấp để giữ nhiệt. Cung điện mùa hạ có năm tầng, được xây cao để thoáng gió. Và cung điện mùa mưa có bảy tầng không thấp cũng không cao để tạo nhiệt độ quân bình.. Ta sống bốn tháng trong cung điện mùa đông, được các vũ nữ hầu hạ 3Chẳng có một người đàn ông nào phục vụ trong cung điện này và chẳng có người nam nào được gặp hoàng tử trong suốt thời gian này. (chẳng có nam vũ công nào nơi đây) và ta chẳng hề rời khỏi cung điện trong suốt thời gian này. Trong khi tôi tớ và nhân công ở các gia đình khác ăn cơm gạo nát và chút ít đồ chua qua bữa, tôi tớ và nhân công tại hoàng cung của cha ta được ăn cơm gạo ngon với thịt.
Này các tỳ khưu, trong cuộc sống thảnh thơi và sung túc, suy nghĩ bỗng sinh khởi trong tâm Như Lai:
“Phàm nhân đang lão hóa dần và không thể tránh khỏi già nua. Nhưng với một cái tâm chưa được huấn luyện thuần thục, người này quên đi tình trạng (lão hóa) của mình cho nên lẩn tránh, chối từ, cảm thấy ghê tởm khi thấy một người già lọm khọm. Chính ta đây rồi cũng sẽ già và không tránh khỏi cái chết. Vậy khi nhìn thấy một người già lọm khọm, ta không nên lẩn tránh, chối từ và cảm thấy ghê tởm như thế”.
Quán tưởng như thế, niềm tự hào về vóc dáng trẻ trung (yobbana māna) không còn sinh khởi trong ta.
Và ta quán tưởng rằng:
“Phàm nhân không thể tránh khỏi bệnh tật, chắc chắn phải đương đầu với bệnh tật. Nhưng khi nhìn thấy một người bệnh, người này trốn tránh, chối từ và cảm thấy ghê tởm mà quên đi tình trạng của chính mình. Ta phải đương đầu với bệnh tật, không thể thoát khỏi bệnh tật. Vậy khi nhìn thấy một người bệnh, ta không nên lẩn tránh, chối từ và ghê tởm như thế”.
Quán tưởng như thế, niềm tự hào về sức khỏe của mình (arogya māna) không còn sinh khởi trong ta.
Ta lại quán tưởng rằng:
“Phàm nhân chắc chắn sẽ chết, không tránh khỏi cái chết. Nhưng khi nhìn thấy một người chết, người này trốn tránh, chối từ và cảm thấy ghê tởm mà quên đi tình trạng của chính mình. Chính ta rồi sẽ chết, không thể thoát khỏi cái chết. Vậy khi nhìn thấy một người chết, ta không nên lẩn tránh, chối từ và ghê tởm như thế”.
Quán tưởng như thế, niềm tự hào về sự sống của mình (jīvita māna) không còn sinh khởi trong ta.
Này tỳ khưu, có ba loại ô nhiễm, đó là gì? Ô nhiễm liên quan đến sự trẻ trung, sức khỏe và sự sống.
Một phàm nhân với cái tâm chưa được huấn luyện thường tự mãn với sự trẻ trung và làm những điều xấu xa qua thân, khẩu, ý. Khi thân thể này bị hủy hoại, sau khi chết, người này sẽ tái sinh vào cảnh khổ, vào cảnh giới khốn cùng, vào cõi thấp, vào địa ngục.
Một phàm nhân với cái tâm chưa được huấn luyện thường tự mãn với sức khỏe dồi dào và làm những điều xấu xa qua thân, khẩu, ý. Khi thân thể này bị hủy hoại, sau khi chết, người này sẽ tái sinh vào cảnh khổ, vào cảnh giới khốn cùng, vào cõi thấp, vào địa ngục.
Một phàm nhân với cái tâm chưa được huấn luyện thường tự mãn với kiếp sống (tốt đẹp của mình) và làm những điều xấu xa qua thân, khẩu, ý. Khi thân thể này bị hủy hoại, sau khi chết, người này sẽ tái sinh vào cảnh khổ, vào cảnh giới khốn cùng, vào cõi thấp, vào địa ngục.
Không tự huấn luyện mình, khi ngã mạn, tự mãn với sự trẻ trung của mình, tỳ khưu sẽ tái sinh nơi cảnh giới thấp.
Không tự huấn luyện mình, khi ngã mạn, tự mãn với sức khỏe dồi dào, tỳ khưu sẽ tái sinh nơi cảnh giới thấp.
Không tự huấn luyện mình, khi ngã mạn tự mãn với cuộc sống của mình, tỳ khưu sẽ tái sinh nơi cảnh giới thấp.
“Đang chịu ảnh hưởng của bệnh tật, già nua và cái chết, lại ghê tởm trước bệnh tật, già nua và cái chết của kẻ khác, người như thế sẽ ra đi theo nghiệp của mình. Ghê tởm trước chúng sinh vốn bị chi phối theo quy luật của bệnh tật, già nua và cái chết quả là lầm lạc, vì chính ta cũng chẳng khác ai”.
Quán tưởng như thế, tâm chẳng còn muốn cưu mang, tâm vượt lên mọi ô nhiễm (ngã mạn, tham ái…) liên quan đến sự trẻ trung, sức khỏe và kiếp sống. Ta tìm gặp sự yên ổn trong hạnh buông xả và hỉ lạc sinh khởi trong ta. Khi chứng nghiệm Niết Bàn, lòng chẳng còn lưu luyến hạnh phúc thế gian 4Hạnh phúc thế gian tức “ngũ dục” gồm cảnh sắc đẹp, âm thanh hay, mùi thơm, vị ngon và sự xúc chạm đem đến cảm giác thích thú.. Sống đời xuất gia, ta sẽ chẳng bao giờ quay quay lại. 5Theo Chú giải, câu này có nghĩa là từ lúc thiền dưới cội Bồ Đề và đắc đạo cho đến khi lìa đời, Ngài chẳng hề quay lại thế gian.
GIẢI THÍCH:
Ba cung điện này được mô tả chi tiết trong Chú giải kinh Sukhumala Sutta thuộc Aṅguttara, Chú giải kinh Magandiya Sutta thuộc Majjhimapaṇṇasa và Phụ Chú giải JinaIankara trong chương Agarikasampatti. Sau đây là phần tóm tắt từ những bản Chú giải trên:
Khi Bồ Tát được 16 tuổi, vua Suddhodana mời những kiến trúc sư, thợ nề, thợ mộc, thợ điêu khắc và họa sĩ danh tiếng đến khởi công xây dựng ba cung điện này cho Bồ Tát cư trú.
Cung điện mùa đông (Ramma)
Gồm có chín tầng, cung điện và các phòng được xây thấp để giữ độ ấm. Các cửa sổ trong tư thế sư tử và hệ thống thông hơi được thiết kế sao cho hơi lạnh từ bên ngoài (tuyết, sương, gió lùa) không lọt vào. Hình ngọn lửa được vẽ trên tường, trên nóc, trên sàn trống để tạo cảm giác ấm áp khi nhìn vào các hình này. Những chuỗi dầu thơm, tràng hoa và ngọc trai được treo đó đây. Trần nhà được dát bằng len và lụa vốn rất mềm, mịn và ấm áp.
Trên đó, những ngôi sao làm bằng vàng, bạc, ruby long lanh phản chiếu ánh sáng từ ngọn lửa rọi vào. Ngoài ra, những bức màn bằng len và lưới mỏng được trang trí với những mảnh nhung lụa thật mềm mại. Quần áo len và nhung dùng trong mùa đông được chuẩn bị sẵn sàng. Thức ăn nóng, cay cũng được chuẩn bị chu đáo. Để giữ độ ấm bên trong cung điện, các cửa sổ được mở ra vào ban ngày và đóng lại vào ban đêm.
Cung điện mùa hạ (Suramma)
Gồm có năm tầng, toàn cung điện và các phòng được thiết kế để tạo sự thoáng khí. Các tầng được xây cao, cửa sổ và cửa kéo to và rộng để đón gió mát từ bên ngoài vào. Cửa chánh và cửa sổ được thiết kế tạo sự thoáng mát, một số cửa cái có lỗ thông hơi hoặc lưới (làm từ vàng, bạc hoặc sắt). Các bức tường, cột trụ và mái nhà được trang trí với các hình hoa sen xanh, đỏ và trắng tạo cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái cho người xem.
Những vại nước đầy ắp nước được đặt cạnh cửa sổ và ở những nơi này, hoa sen đủ màu đang khoe sắc. Những vòi nước phun được thiết kế thay mưa làm dịu cơn nóng và cũng để tưới cây lá xung quanh.
Trong cung điện, các chậu hoa và những bồn nước chứa bùn thơm và bùn loãng được đặt đó đây ở các góc tường để trồng năm thứ hoa sen. Trần nhà được dát vải cô tông mềm mịn tạo sự mát mẻ.
Ngoài ra, những bức tường dát vàng và những màn lụa thưa mịn được trang trí đẹp mắt. Thảm trắng được lót sàn để tạo cảm giác mát mẻ.
Quần áo trắng mỏng được chuẩn bị để dùng trong mùa hè. Thức ăn thơm ngon có tác dụng giải nhiệt cũng được chuẩn bị sẵn sàng.
Mái cung điện được gắn những cái chuông nhỏ tạo ra những âm thanh vui tai và nhẹ nhàng như năm loại nhạc trời. Những miếng vàng mỏng với những lỗ nhỏ li ti được gắn sát dưới nóc cung điện và khi nước từ bốn hồ nước ở bốn phía cung điện được bơm lên, nước thấm qua trần nhà làm những giọt nước li ti rơi xuống như thể trời đang đổ mưa.
Bên trên những miếng vàng mỏng này là những tấm da trâu khô và những hạt sỏi được một hệ thống máy đưa lên phía trên nóc và rồi thả xuống. Khi những hạt sỏi này rơi lên miếng da trâu, nó tạo ra âm thanh tương tự tiếng sấm sét vang trong mưa.
Có 108 chậu bằng vàng hoặc bạc chứa nước hoa thơm được đặt quanh giường ngủ được bao phủ bởi miếng lưới mỏng thêu hoa sen xanh. Hoa sen đủ màu trong các bồn nước bằng đồng đặt đó đây trong cung điện tạo ra cảm giác mát mẻ, thoải mái. Sen nở khi có ánh sáng mặt trời, ong mật bay quanh hoa sen để hút mật và cung điện Suramma luôn phảng phất hương hoa. Cửa cái được đóng kín vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Hệ thống máy được sử dụng để bơm nước từ hồ lên, để gắp sỏi lên và thả xuống miếng da trâu tạo ra mưa và sấm sét nhân tạo. Bồ Tát mặc áo quần màu xanh da trời, thỏa thích tận hưởng sự mát mẻ và vui chơi với 40 ngàn tì nữ sực mùi nước hoa trong những bộ quần áo xanh.
Ở bốn phía cung điện, năm loại hoa sen được trồng trong bốn hồ nước sạch mát rượi màu xanh ngọc. Những loài chim nước như thiên nga, vịt, diệc đủ màu từ hồ nước phía đông vụt bay lên và lướt ngang qua cung điện tạo ra những âm thanh êm tai, rồi đáp xuống hồ nước phía tây.
Cũng có lúc, những con chim bay từ hồ tây qua hồ đông, từ hồ bắc qua hồ nam, từ hồ nam qua hồ bắc. Trong suốt mùa hạ, Bồ Tát sống an vui nơi cung điện này như thể đang ở trong mùa mưa mát mẻ vậy.
Cung điện mùa mưa (Subha)
Gồm có bảy tầng, được thiết kế hoàn hảo, không thấp cũng không cao, không quá rộng cũng không quá hẹp, để tạo ra sự ấm áp và mát mẻ. Cửa cái và các cửa sổ chính được thiết kế phù hợp cho cả mùa nóng và mùa lạnh: có cửa được che chắn cẩn thận bằng ván và len, có cửa lại có nhiều lỗ nhỏ với lưới kim loại (bằng vàng, bạc hay đồng).
Trên tường là những bức tranh vẽ cảnh ao hồ và lửa. Quần áo và thảm được chuẩn bị sẵn để dùng khi nóng nực hoặc khi lạnh và vật dụng trang trí nội thất dùng ở hai cung điện mùa đông và mùa hạ được sắp đặt tại đây. Một số cửa cái và cửa sổ được mở ban ngày và đóng ban đêm trong khi các cửa khác được mở ban đêm và đóng lại vào ban ngày.
Sau khi mô tả cuộc sống xa hoa, dục lạc của mình trong ba cung điện, Đức Phật nói trong kinh Magandiya Sutta (Majjhima Nikāya 75) về những hỉ lạc cao hơn hạnh phúc trần gian như sau:
“Khi sống đời tại gia, ta được chu cấp, hưởng thụ, cận kề cảnh sắc như ước nguyện: cảnh sắc đẹp đẽ đem đến sự thích thú, hài lòng liên quan đến dục trần, cảnh sắc làm phát sinh dục vọng. Khi sống đời tại gia, ta được chu cấp, hưởng thụ, cận kề âm thanh, mùi hương… vị nếm… sự xúc chạm như ước nguyện… Ta sống trong ba cung điện… chẳng hề bước ra ngoài cung điện. Lần nọ, khi hiểu ra sự thật sinh diệt, những quyến rũ, hiểm nguy và sự thoát khỏi dục lạc, ta từ bỏ tham ái, dập tắt lửa tham ái, sống không khát vọng, tâm hướng vào trong.
Ta thấy những chúng sinh chưa thoát khỏi tham ái vẫn tìm kiếm tham ái, bị tham ái hành hạ, chìm đắm trong tham ái. Nhưng ta chẳng tham đắm trong tham ái, chẳng ao ước hay ganh tị với họ. Vì sao vậy? Này Māgandiya, vì có loại hạnh phúc khác với dục lạc, khác với những bất thiện, vượt xa hạnh phúc thiên giới. Ta đã đạt được và sống an hưởng loại hạnh phúc này. Do vậy, ta chẳng ao ước hay ganh tị với loại hạnh phúc thấp kém hơn, chẳng vui hưởng loại hạnh phúc thấp kém hơn”.
Loại hạnh phúc mà Ngài nói đến trong kinh Magandiya Sutta là hạnh phúc an hưởng quả vị giải thoát. Một người “được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo nhất hạng” và hưởng mọi lạc thú trần gian ở mức độ cao nhất như thế vẫn nhận ra loại hạnh phúc trần gian này chỉ có vậy, chứ không cao hơn. Do đó, chúng ta được khuyên từ bỏ hạnh phúc trần gian thấp kém, để có hạnh phúc giải thoát cao thượng vượt xa muôn lần hạnh phúc trần gian.
- 1Theo Chú giải, Kāsi là một trong 16 tiểu bang ở Ấn Độ, có thủ đô là Bārānasi.
- 2Phía bắc Ấn Độ có ba mùa: mùa đông kéo dài từ tháng mười một đến tháng ba, mùa hạ kéo dài từ tháng ba đến tháng bảy, và mùa mưa kéo dài từ tháng bảy đến tháng mười một. Cung điện mùa đông có chín tầng, được xây thấp để giữ nhiệt. Cung điện mùa hạ có năm tầng, được xây cao để thoáng gió. Và cung điện mùa mưa có bảy tầng không thấp cũng không cao để tạo nhiệt độ quân bình.
- 3Chẳng có một người đàn ông nào phục vụ trong cung điện này và chẳng có người nam nào được gặp hoàng tử trong suốt thời gian này.
- 4Hạnh phúc thế gian tức “ngũ dục” gồm cảnh sắc đẹp, âm thanh hay, mùi thơm, vị ngon và sự xúc chạm đem đến cảm giác thích thú.
- 5Theo Chú giải, câu này có nghĩa là từ lúc thiền dưới cội Bồ Đề và đắc đạo cho đến khi lìa đời, Ngài chẳng hề quay lại thế gian.