KINH HOÀNG HẬU MALLIKĀ

KINH HOÀNG HẬU MALLIKĀ

(Mallikādevī Sutta, Aṅguttara Nikāya IV.20 Mahāvaggo.7)

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn trú tại tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên) của trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) trong thành Sāvatthī (Xá Vệ). Lúc ấy hoàng hậu Mallikā đến gặp Đức Phật, đảnh lễ, ngồi sang một bên và thưa với Đức Phật rằng:

– Thưa Đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà nơi đây, một số người nữ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ, nghèo khổ, cơ cực, bần cùng và không có uy tín thế lực?

Do nhân duyên gì mà một số người nữ nơi đây có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ nhưng lại giàu sang, có nhiều của cải tài sản và có uy thế?

Do duyên gì, thưa Đức Thế Tôn, mà một số người nữ nơi đây có nhan sắc kiều diễm, quyến rũ, duyên dáng, với làn da xinh đẹp nhưng lại nghèo khổ, cơ cực, bần cùng, và không có uy thế?

Và do duyên gì mà một số người nữ nơi đây vừa xinh đẹp mỹ miều, vừa giàu sang có nhiều của cải, lại có uy thế?

– Này Mallikā,

• Có những người nữ thường dễ nổi giận, cáu kỉnh. Khi bị chỉ trích dù chỉ chút ít, người này không kềm được cơn nóng giận, trở nên giận dữ, thù hằn, bướng bỉnh, tỏ ra bực tức, phẫn nộ, gay gắt. Người này không từng cúng dường đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Người này còn sinh lòng bực tức, ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường.

Nếu đến phút lâm chung mà vẫn không thay đổi tính nết, người này dù tái sinh nơi đâu cũng sẽ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ, nghèo khổ, cơ cực, bần cùng và không có uy thế.

• Có những người nữ dễ nổi giận, cáu kỉnh. Tuy nhiên, người này thường cúng dường đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Hơn thế nữa, người này chẳng sinh lòng bực tức, ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường.

Nếu tâm tính người này vẫn thế không thay đổi cho đến khi lìa đời, thì dù tái sinh nơi đâu, người này cũng sẽ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển nhưng lại có nhiều của cải và có uy thế.

• Nơi đây cũng có những người nữ dù bị chỉ trích cũng hiếm khi nổi giận, cáu kỉnh. Tuy nhiên, người này chẳng hề cúng dường đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Hơn thế nữa, người này thường sinh lòng ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường.

Nếu tâm tính người này vẫn thế không thay đổi cho đến khi lìa đời, thì dù tái sinh nơi đâu, người này cũng sẽ có nhan sắc kiều diễm, dễ thương đầy quyến rũ và làn da xinh đẹp nhưng lại nghèo khổ, ít có tài sản của cải và không có uy thế.

• Lại có những người nữ dù bị chỉ trích cũng hiếm khi nổi giận, cáu kỉnh. Người này cũng thường hay dâng cúng đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Và người này chẳng hề khởi tâm ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường.

Nếu gìn giữ đức hạnh được như thế cho đến phút lìa đời thì dù tái sinh nơi đâu, người này cũng sẽ luôn có nhan sắc mỹ miều, cuộc sống giàu sang và có uy thế.

Này Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ, sống trong nghèo khổ, cơ cực, bần cùng và không có uy thế.

Này Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển nhưng lại có nhiều của cải và có uy thế.

Này Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ có nhan sắc kiều diễm, dễ thương với làn da xinh đẹp và đầy quyến  rũ nhưng lại nghèo khổ, ít có tài sản và không có uy thế.

Và Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ vừa xinh đẹp mỹ miều, vừa giàu sang có nhiều của cải lại có uy thế.

Khi Đức Thế Tôn vừa dứt lời, hoàng hậu Mallikā thưa rằng:

– Thưa Đức Thế Tôn, nếu như trong một kiếp nào trong quá khứ con thường hay nổi giận, cáu kỉnh thì nay con sinh ra với diện mạo xấu xí, thô thiển.

Nếu như trong quá khứ, con đã từng cúng dường đến bậc sa môn và bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc, thì nay con được giàu sang, có nhiều tài sản.

Và nếu như trong quá khứ, con không sinh lòng ganh tỵ với những người đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường thì nay con có được thế lực lớn.

Thưa Đức Thế Tôn, trong nội cung này, dưới quyền điều khiển của con có những thiếu nữ hoàng tộc, những thiếu nữ bà la môn và những thiếu nữ thuộc hàng gia chủ. Thưa Đức Thế Tôn, từ nay con sẽ không nổi giận, cáu kỉnh với ai. Dù bị chỉ trích nặng nề, con sẽ không nổi cơn nóng giận, thù hằn, con sẽ không tỏ ra bực tức, phẫn nộ, gay gắt.

Con sẽ cúng dường đến hàng sa môn và bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc.

Con sẽ không khởi tâm ganh tỵ với những ai được hưởng lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng. Và con cũng sẽ không khởi tâm ganh tỵ với những người đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường.

Tuyệt vời thay, Đức Thế Tôn! Xin Ngài nhận con làm đệ tử. Con xin quy y với Ngài kể từ nay cho đến trọn đời.

GIẢI THÍCH:

Hoàng hậu Mallikā là cô gái thông minh, xinh đẹp, con của người làm tràng hoa trong thành Sāvatthī. Ở tuổi 16, cô thường cùng bạn bè đến chơi công viên và hái hoa. Một hôm, trên đường đem cơm đến vườn hoa, cô gặp Đức Phật cùng tỳ khưu đang đi khất thực. Nhìn dáng vẻ uy nghi, tĩnh lặng của Đức Phật, cô khởi lòng ngưỡng mộ, dâng cúng trọn phần ăn trưa của mình. Với cử chỉ hân hoan, cô phủ phục nơi chân Ngài bày tỏ lòng kính quý dù chẳng biết Ngài là Đức Phật.

Đức Phật nhận thức ăn và mỉm cười. Ngài Ānanda thấy vậy nên muốn biết vì sao Ngài mỉm cười. Đức Phật nói rằng cô gái này sẽ gặt được quả thiện lành (do lòng cung kính và phát tâm dâng cúng mạnh mẽ) trở thành hoàng hậu của xứ Kosala trong ngày hôm nay. Điều này tưởng chừng như không thể xảy ra bởi Mallikā thuộc đẳng cấp thấp (Ấn Độ thời đó rất phân biệt đẳng cấp) và vua Pasenadi của xứ Kosala lại là một trong những vị vua danh tiếng thời đó.

Nhưng ngày hôm đó, vua Pasenadi thua cuộc trong trận chiến với vua Ajātasattu của xứ Magadha. Bại trận trở về, vua cưỡi ngựa vào vườn hoa và chợt nghe tiếng hát ngọt ngào của cô gái hái hoa Mallikā. Thỏa thích vì được cúng dường một người có dáng vẻ uy nghi, tĩnh lặng, cô say sưa ca hát và nhảy múa mà chẳng biết nhà
vua đang theo dõi mình.

Vua xuống ngựa, đến bên cô gái, hỏi cô đã có chồng chưa và vua nói rằng mình vừa bại trận trở về. Mallikā an ủi nhà vua. Ngưỡng mộ vẻ đẹp và bản tính dịu dàng của cô gái, vua quyết định chọn cô làm hoàng hậu. Sau khi đưa cô về nhà bằng ngựa của mình, tối hôm đó, vua cho người đến đón cô về cung làm hoàng hậu. Và tin đồn cô gái hái hoa Mallikā trở thành hoàng hậu do thành tâm cúng dường trọn bữa cơm trưa của mình đến Đức Phật lan ra trong dân chúng.

Hoàng hậu Mallikā trở thành Phật tử. Với bản tính thông minh, khi quan sát nhân cách và cuộc đời của những người xung quanh, cô đã hỏi Đức Phật những câu hỏi trên. Và cô cố gắng hành theo lời Phật dạy: cư xử tử tế, dịu dàng với cung nữ dưới quyền và mọi người xung quanh, không ganh tỵ với hoàng hậu thứ của vua, thường xuyên dâng bát đến Đức Phật cùng chư tăng và xây dựng Pháp đường để học hỏi Phật pháp.

Vì vua Kosala theo đạo bà la môn, một lần gặp ác mộng, ông tin lời các bà la môn lý giải điềm xấu trong mơ và chuẩn bị vô số thú vật để tế thần. Hoàng hậu Mallikā cản ngăn, khuyên vua đến gặp Đức Phật. Đức Phật cho biết vì vua hành thiền và có định tâm mạnh nên thấy trước những việc xấu xảy ra do đức độ suy đồi của hoàng gia. Kể từ đó, vua trở thành Phật tử, hộ trì Phật pháp.

Khi vua thỉnh cầu Đức Phật đến dạy giáo lý cho hai hoàng hậu Mallikā và Vasaba Khattiya của mình, Đức Phật cho Đại đức Ānanda đến. Khi học pháp, Mallikā chăm chú lắng nghe, tỏ ra rất sáng dạ và cố gắng hành theo những gì được dạy. Ngược lại, Vasaba Khattiya tỏ ra lơ là, không hiểu rõ giáo pháp và không hưởng được nhiều lợi lạc.

Khi Đại đức trình lên Đức Phật, Ngài nhìn nhận rằng lời hay ý đẹp trở nên vô ích với những ai chẳng học hỏi và hành theo, như bông hoa đẹp mà không hương (ám chỉ Vasaba Khattiya). Nhưng lời hay ý đẹp đem đến nhiều lợi lạc cho những ai chuyên tâm học hỏi và hành theo, như bông hoa có hương lẫn sắc vậy (ám chỉ Mallikā).

Mục Lục Bài Viết

Chỉ mục