BỐN ĐIỀU VI DIỆU
(Dutiya Acchariya Sutta, Aṅguttara Nikāya IV.128)
Nơi chư Phật, là vị A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ (Đấng Toàn Giác)., có bốn điều vi diệu. Bốn điều ấy là gì?
Người đời thường tìm vui trong tham ái 1Ālaya = taṇhā (tham ái). Và đây là tham ái vào năm dục trần: cảnh sắc, âm thanh, mùi, vị nếm và xúc chạm qua thân., thỏa thích trong tham ái và thụ hưởng, đam mê tham ái. Nhưng khi giáo pháp về sự xa lìa, buông bỏ tham ái 2Anālaya, đối nghịch với ālaya. được Như Lai tuyên giảng, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghe và rồi tâm thức hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng 3Odahati aññā (có trí tuệ) cittaṃ upaṭṭhapeti (hướng tâm tới). Aññā: là trí tuệ do kinh nghiệm đạo quả A La Hán.. Đây là điều vi diệu đầu tiên có nơi chư Phật, là một bậc A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ.
Người đời thường kiêu căng, tự đắc, thỏa thích trong kiêu căng, tự đắc và vui sướng vì được thỏa mãn tính kiêu căng, tự đắc của mình. Nhưng khi giáo pháp về sự xa lìa, buông bỏ tính kiêu căng được Như Lai tuyên giảng, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghe và rồi tâm thức hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng. Đây là điều vi diệu thứ hai có nơi chư Phật, là một bậc A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ.
Người đời thường thỏa thích suy nghĩ miên man, tìm vui trong vọng tưởng và vui sướng trong miên man vọng tưởng 4Anupasama (anu-không + upasama-yên tĩnh, thanh tịnh) có nghĩa là vọng tưởng (uddhacca).. Nhưng khi Như Lai tuyên giảng Pháp tĩnh lặng, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghe và rồi tâm thức hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng. Đây là điều vi diệu thứ ba có được nơi chư Phật, là một bậc A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ.
Người đời thường sống trong vô minh, bị vô minh làm mù lòa và bị vô minh trói buộc. Nhưng khi Như Lai tuyên giảng giáo pháp loại trừ vô minh, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghe và rồi tâm thức hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng. Đây là điều vi diệu thứ tư có được nơi chư Phật, là một bậc A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ.
Đây là bốn đặc tính tuyệt vời có được nơi Như Lai, là một bậc A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ (Đấng Toàn Giác).
GIẢI THÍCH:
Trí Tuệ Sau Cùng (aññā)
Đức Phật đã nhắc đến loại “trí tuệ sau cùng” trong nhiều bài kinh 5Satipaṭṭhāna Sutta (Majhima Nikāya 10), Susīma Sutta (Saṁyutta Nikāya 12), Sīla Sutta (Saṁyutta Nikāya 46), Dvephalā Sutta (Saṁyutta Nikāya 48), Phalā Sutta (Saṁyutta Nikāya 51), Phalā Sutta (Saṁyutta Nikāya 54)…. Đây là loại trí tuệ phát sinh với đạo quả A La Hán. Trong cuộc đối thoại giữa Đức Phật và ngài Xá Lợi Phất (kinh Kaḷāra Sutta, Saṃyutta Nikāya II.1.4.2), Đức Phật định nghĩa trí tuệ sau cùng là trí tuệ hiểu: “Tái sinh đã chấm dứt. Cuộc sống Thánh thiện đang diễn ra. Điều cần làm đã làm xong, chẳng còn gì sinh khởi thêm nữa”.
- 1Ālaya = taṇhā (tham ái). Và đây là tham ái vào năm dục trần: cảnh sắc, âm thanh, mùi, vị nếm và xúc chạm qua thân.
- 2Anālaya, đối nghịch với ālaya.
- 3Odahati aññā (có trí tuệ) cittaṃ upaṭṭhapeti (hướng tâm tới). Aññā: là trí tuệ do kinh nghiệm đạo quả A La Hán.
- 4Anupasama (anu-không + upasama-yên tĩnh, thanh tịnh) có nghĩa là vọng tưởng (uddhacca).
- 5Satipaṭṭhāna Sutta (Majhima Nikāya 10), Susīma Sutta (Saṁyutta Nikāya 12), Sīla Sutta (Saṁyutta Nikāya 46), Dvephalā Sutta (Saṁyutta Nikāya 48), Phalā Sutta (Saṁyutta Nikāya 51), Phalā Sutta (Saṁyutta Nikāya 54)…