BÀI GIẢNG CHO THIỆN NAM POTALIYA
(Potaliya Sutta, Majjhima Nikāya 54)
Tôi nghe như vầy…
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngụ tại xứ của người Aṅguttarāpa nơi có phố chợ Āpaṇa 1 Theo Chú giải (MA 3:34), chữ “Aṅguttarāpa” gồm “aṅga” có nghĩa là đất nước (janapada) và địa danh “Uttarāpa”. Uttarāpa nằm ở phía bắc sông Mahī. Gọi là phố “Āpaṇa” vì nơi đây có nhiều cửa tiệm và gian hàng tạp hóa.. Một buổi sáng nọ, Ngài đắp y, ôm bát vào Āpaṇa khất thực. Sau khi khất thực và ăn trưa xong, Ngài vào rừng, đi đến một gốc cây và ngồi xuống nghỉ.
Lúc ấy, ông chủ hộ Potaliya ăn mặc chỉnh tề, chân mang dép, tay cầm dù, đi tới đi lui quanh đó. Thả bộ vào rừng, ông đến chỗ Đức Thế Tôn chào hỏi thân thiện. Sau khi chào hỏi, ông đứng sang một bên. Ngồi bên này, Đức Phật nói với ông Potaliya:
– Có nhiều chỗ trống quanh đây, này ông chủ hộ, ông có thể ngồi xuống nếu muốn.
Nghe Đức Phật nói như thế, chủ hộ Potaliya thầm nghĩ: “Đạo sĩ Gotama gọi ta là ‘ông chủ hộ’ ”. Ông bực tức, không vui nên lặng thinh. Đức Thế Tôn lại nói lần nữa:
– Có nhiều chỗ trống quanh đây, này ông chủ hộ, ông có thể ngồi xuống nếu muốn.
Ông chủ hộ Potaliya thầm nghĩ: “Đạo sĩ Gotama gọi ta là ‘ông chủ hộ’ ”. Ông bực tức, không vui nhưng lặng thinh. Khi Đức Thế Tôn mời ông ngồi xuống lần thứ ba, Potaliya nghĩ thầm: “Đạo sĩ Gotama gọi ta là ‘ông chủ hộ’ ”. Bực tức, không vui, ông nói với Đức Phật như sau:
– Này đạo sĩ Gotama, ông không nên gọi tôi là “ông chủ hộ” như vậy.
– Này ông chủ hộ, nhưng ông có hình tướng, dáng mạo và phong cách của một người chủ hộ.
– Này đạo sĩ Gotama, tôi đã bỏ nghề và cắt đứt chuyện đời.
– Vì sao ông lại nói rằng ông đã bỏ nghề và cắt đứt chuyện đời?
– Này đạo sĩ Gotama, những tài sản mà tôi có được trong đời, dù là tiền của, lúa thóc hay bạc vàng, tôi đã để cho các con tôi thừa hưởng. Tôi chẳng khuyên chúng phải làm gì hay quở trách chúng việc gì. Hiện tại, tôi chỉ sống nhờ vào thức ăn và quần áo (che thân). Tôi đã từ bỏ nghề nghiệp và cắt đứt chuyện đời như thế.
– Này ông chủ hộ, việc cắt đứt chuyện đời của ông thật khác với việc cắt đứt chuyện đời của những vị Thánh đệ tử.
– Vậy thưa Ngài, những vị Thánh đệ tử cắt đứt chuyện đời ra sao? Nếu Ngài có thể nói cho tôi biết các vị ấy cắt đứt chuyện đời ra sao thì tốt quá!2Đến đây, thái độ của Potaliya thay đổi. Ông bắt đầu tỏ vẻ tôn kính Đức Phật.
– Vậy ông hãy cẩn thận lắng nghe. Ta bắt đầu giảng.
– Vâng, thưa Ngài.
– Này ông chủ hộ, có tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử từ bỏ chuyện đời, cắt đứt chuyện đời. Tám pháp ấy là gì?
1. Nương vào pháp không giết hại chúng sinh, việc giết hại chúng sinh (pāṇātipāta) cần được từ bỏ.
2. Nương vào pháp không lấy của không cho, việc cướp bóc,lấy của không cho (adinnādāna) cần được từ bỏ.
3. Nương vào pháp nói lời chân thật, lời gian dối (musāvāda) cần được từ bỏ.
4. Nương vào pháp không nói lời vu khống, lời vu khống (pisunāvācā) cần được từ bỏ.
5. Nương vào pháp xa rời tham ái, tham ái (lobha) cần được từ bỏ.3“Agiddhi lobhaṁ nissāya, giddhi lobho pahātabbo”. Theo Chú giải, “giddhi lobha” có nghĩa là tham ái có gốc tham, từ tham mà sinh khởi (gedha bhūto lobho, MA 3:39).
6. Nương vào pháp không làm điều sân hận đáng chê trách, sân hận đáng chê trách (nindārosa) cần được từ bỏ.4“Anindā rosaṁ nissāya, nindāroso pahātabbo” (nindā: đáng trách, rosa: sân hận, giận dữ, bực bội và anindā: không sân).
7. Nương vào pháp không buồn phiền, buồn phiền (kodhūpāyāsa) cần được từ bỏ.
8. Nương vào pháp không ngã mạn tự cao, ngã mạn tự cao quá mức (atimāna) cần được từ bỏ.
– Này ông chủ hộ, ta vừa tóm lược tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử từ bỏ, cắt đứt chuyện đời như thế.
– Xin Ngài từ bi giải thích cặn kẽ cho tôi biết tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử hoàn toàn buông bỏ chuyện thế gian.
– Vậy ông hãy cẩn thận lắng nghe. Ta bắt đầu giảng.
– Vâng, thưa Ngài.
Và rồi, Đức Phật giảng như sau:
1. Nương vào pháp không giết hại chúng sinh, việc giết hại chúng sinh cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại52 Saṁyojana: 10 lậu hoặc (trói buộc, chướng ngại, kiết sử) gồm: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), giới cấm thủ (sīlapataparāmāssa), tham ái ngũ trần (kāmarāga), ác ý (paṭigha), tham muốn tái sinh cõi Sắc giới (Rūparāga), tham muôn tái sinh cõi Vô Sắc giới (Arūparāga), ngã mạn (māna), phóng dật (uddhacca), vô minh (avijjā). Nơi đây, sát sinh được gọi là lậu hoặc hay trói buộc (dù không được liệt kê trong danh sách 10 lậu hoặc) vì nó níu kéo, trói buộc chúng sinh trong sinh tử luân hồi, cản trở sự tiến bộ giải thoát (theo Chú giải MA 3:40). (trong tâm) dẫn đến hành động sát sinh. Khi phạm tội sát sinh, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì sát sinh, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Sát sinh tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại (saṃyojanā). Do sát sinh mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không sát sinh, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không giết hại chúng sinh, việc giết hại chúng sinh cần được từ bỏ”.
2. Nương vào pháp không lấy của không cho, việc cướp bóc, lấy của không cho cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến hành động ăn cắp. Khi ăn cắp, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì trộm cắp, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Ăn cắp tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do ăn cắp mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không ăn cắp, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không lấy của không cho, việc cướp bóc, lấy của không cho cần được từ bỏ”.
3. Nương vào pháp nói lời chân thật, lời gian dối (musāvāda) cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến việc nói dối. Khi nói dối, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì nói dối, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Nói dối tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do nói dối mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không nói dối, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp nói lời chân thật, lời gian dối cần được từ bỏ”.
4. Nương vào pháp không nói lời vu khống, lời vu khống (pisunāvācā) cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến việc vu khống. Khi vu khống, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì vu khống người, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Vu khống tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do vu khống mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không vu khống, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không nói lời vu khống, lời vu khống cần được từ bỏ”.
5. Nương vào pháp xa rời tham ái, tham ái cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến tham ái. Khi tham ái, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì tham ái, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Tham ái tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do tham ái mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không tham ái, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp xa rời tham ái, tham ái cần được từ bỏ”.
6. Nương vào pháp không làm điều sân hận đáng chê trách (vạch lá tìm sâu kiếm lỗi của người), sân hận đáng chê trách cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) làm phát sinh sân hận đáng chê trách. Làm điều sân hận đáng chê trách, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì (làm điều) sân hận đáng chê trách, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Sân hận đáng chê trách tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do sân hận đáng chê trách mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không (làm điều) sân hận đáng chê trách, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không làm điều sân hận đáng chê trách, sân hận đáng chê trách cần được từ bỏ”.
7. Nương vào pháp không buồn phiền, buồn phiền cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) làm phát sinh buồn phiền. Tạo ra buồn phiền (trong tâm), ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì gây ra buồn phiền (trong tâm), ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Buồn phiền tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do buồn phiền mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không buồn phiền, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không buồn phiền, buồn phiền cần được từ bỏ”.
8. Nương vào pháp không ngã mạn tự cao, ngã mạn tự cao quá mức cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) làm phát sinh ngã mạn tự cao. Vì có ngã mạn tự cao (trong tâm), ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì ngã mạn tự cao, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Ngã mạn tự cao tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do ngã mạn tự cao mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không ngã mạn tự cao, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không ngã mạn tự cao, ngã mạn tự cao cần được từ bỏ”.
Này ông chủ hộ, ta vừa giảng giải chi tiết tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử từ bỏ, cắt đứt chuyện đời. Nhưng tám pháp này vẫn chưa giúp các vị Thánh đệ tử cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo được.
– Bằng cách nào các vị này có thể cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo? Xin Ngài từ bi giải thích cặn kẽ cho tôi.
– Vậy ông hãy cẩn thận lắng nghe. Ta bắt đầu giảng.
– Vâng, thưa Ngài.
Và rồi, Đức Phật giảng như sau:
– Này ông chủ hộ, giả sử có con chó đang đói lả đi ngang qua lò mổ. Và nơi đó, người đồ tể điêu luyện quăng cho nó những khúc xương đã lóc hết thịt và chẳng còn dính chút máu6Vì điêu luyện, nên người đồ tể này có thể khéo léo cắt, xẻ, và lóc mảng thịt một cách tài tình, nên không có miếng thịt nào còn dính lại trên khúc xương.. Theo ông, con chó liếm láp và gặm ngấu nghiến khúc xương này có thể hết đói chăng?
– Dạ thưa không.
– Vì sao?
– Vì khúc xương đã lóc hết thịt và chẳng còn dính chút máu. Gặm khúc xương này, con chó chỉ mệt lả chứ chẳng được gì.
– Tương tự như thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví hạnh phúc trần gian7“Hạnh phúc trần gian” hay “ngũ dục” gồm: cảnh đẹp, âm thanh hay, mùi thơm, vị ngon, sự xúc chạm qua thân đem đến cảm giác hài lòng. như khúc xương, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác, từ đó phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung.
Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết 8Uppekkhā nānatta: tâm xả liên quan đến ngũ dục trần gian. Upekkhā ekatta: tâm xả liên quan đến nhất tâm (ekaggatā), đến thiền Định. Liên quan đến bài kinh này, trong Chú giải của kinh Saḷāyatana Vibhaṅga Sutta (Majjhima Nikāya 137), tâm xả của người chủ hộ (gehasitā upekkhā) là loại tâm xả có đặc tính không hay biết (vô minh) phát sinh trong tâm người chưa loại bỏ được ô nhiễm trong tâm, và ô nhiễm này sẽ sinh ra quả tốt xấu trong tương lai. Loại tâm xả này bám chặt vào hạnh phúc trần gian như ruồi bám vào miếng đường vậy. Ngược lại, tâm xả thoát ly, khước từ (nekkhamma sitā upekkhā) là loại tâm xả phát sinh do có được tuệ Minh Sát. Hướng tâm đến sự buông bỏ và xa rời tham ái, loại tâm xả này không bám níu vào đối tượng đẹp đẽ, quyến rũ cũng không chê bỏ đối tượng xấu xa.
– Này ông chủ hộ, giả sử có con kên kên, diều hâu hay chim ưng gắp được miếng thịt và bay đi. Những con kên kên, diều hâu và chim ưng khác sẽ lập tức bay theo mổ nó, giành lấy miếng mồi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu con kên kên này không kịp thời buông miếng thịt ngậm trong mỏ? Nó có bị hành hạ đau đớn, thậm chí mất cả tính mạng hay không?
– Dạ thưa có.
– Tương tự như thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như miếng thịt, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác, từ đó phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
– Này ông chủ hộ, giả sử có người cầm ngọn đuốc cỏ đi ngược chiều gió. Nếu không lập tức buông ngọn đuốc, thì người này có bị phỏng, bị đau đớn vì phỏng hoặc chết vì phỏng không?
– Dạ thưa có.
– Tương tự như thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như ngọn đuốc cỏ, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác, từ đó phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
– Này ông chủ hộ, giả sử có một hầm than đỏ rực, không có lửa hay khói, sâu hơn chiều cao của một người. Và có một người tham sống sợ chết, một người ham thích những thú vui trong đời và không thích đau khổ đi ngang qua. Nếu hai người đàn ông lực lưỡng nào đó tóm lấy người này và lôi đến gần hầm than rực đỏ này, thì người này có vùng vẫy, chống cự hay không?
– Dạ thưa có.
– Vì sao vậy?
– Vì người này nghĩ rằng: “Rơi vào lò than rực đỏ này, ta sẽ chết hay bị phỏng gần chết”.
– Tương tự thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như hầm than đỏ rực, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
– Này ông chủ hộ, giả sử có người nằm mơ thấy toàn cảnh đẹp: công viên nên thơ, khu rừng quyến rũ, bãi đất trải dài và những cái hồ tuyệt đẹp. Khi tỉnh giấc, người này chẳng tìm thấy những cảnh đẹp ấy ở nơi đâu.
Tương tự thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như giấc mơ, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người ấy từ bỏ loại tâm xả tản mác và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
– Này ông chủ hộ, giả sử có người mượn xe đời mới hay đồ trang sức, bông tai… để chưng diện và đi vào chốn đông người. Thấy thế, mọi người sẽ nói rằng: “Người giàu có sống đời sang trọng, xa hoa thật chẳng sai”. Nếu những người chủ của những vật dụng này chợt thấy người này và đòi lại hết những của cải của họ. Theo ông, người này có nên bực tức, giận dữ hay không?
– Dạ thưa không.
– Vì sao?
– Vì họ chỉ lấy lại những tài sản của họ cho mượn.
– Tương tự thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như đồ vay mượn, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
Này ông chủ hộ, giả sử có một khu rừng chẳng xa làng mạc và phố thị bao nhiêu. Nơi đó, có một cây ăn trái trĩu quả nhưng chẳng có trái nào rơi rụng xuống đất. Một người đàn ông đi vào rừng tìm kiếm trái chín. Thấy cây ăn trái trĩu quả, người này nghĩ rằng: “Trong rừng, (chỉ có) cây này có nhiều trái, nhưng chẳng có trái nào rơi rụng xuống đất. Tại sao ta không trèo lên cây ăn cho thỏa thích và bỏ đầy túi quần, túi áo mang về?”.
Nghĩ vậy, người này trèo lên cây ăn thỏa thích và hái cho vào túi quần, túi áo để mang về. Rồi một người đàn ông khác đem cái cưa vào rừng tìm kiếm trái chín. Thấy cây ăn trái trĩu quả, người này nghĩ rằng: “Trong rừng, (chỉ có) cây này có nhiều trái, nhưng chẳng có trái nào rơi rụng xuống đất, mà ta lại chẳng biết trèo. Tại sao ta không cưa cây ăn cho thỏa thích và bỏ đầy túi quần túi áo đem về?”.
Nghĩ thế, người này cưa cây. Nếu mải mê ăn trái trên cây và không kịp leo xuống, người ở trên cây có thể bị gãy tay, gãy chân hoặc gãy xương hoặc thương tích nơi thân khi cây bị cưa ngã. Nếu vậy, người này có thể chết hoặc đau đớn như người sắp chết hay không?
– Dạ thưa có.
– Tương tự, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như cái cây trĩu quả, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác, và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung,9Theo Chú giải, “loại tâm xả an tịnh, tập trung” này chính là tâm xả trong Tứ thiền, trong đó, bốn chi thiền Tầm, Tứ, Hỷ và Lạc đã bị loại trừ, chỉ còn lại chi thiền Nhất Tâm (ekagatta) phát sinh với thọ xả.
tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
Này ông chủ hộ, khi vị Thánh đệ tử vẫn duy trì được loại chánh niệm tối cao và trạng thái tâm xả hoàn toàn thanh tịnh trong sạch, vị này sẽ có Túc Mạng Thông có thể nhìn thấy những kiếp quá khứ của mình (pubbe-nivāsanussati): một kiếp, hai kiếp… năm kiếp… 10 kiếp… 50 kiếp… 100 kiếp… 1.000 kiếp… 100,000 kiếp… trong nhiều đại kiếp thế giới hình thành, trong nhiều đại kiếp thế giới phát triển, trong nhiều đại kiếp thế giới hình thành và phát triển với những chi tiết cụ thể: “Tại đó, tôi có tên này, thuộc đẳng cấp này, diện mạo như thế này, ăn thức ăn này, kinh nghiệm những đau khổ và hạnh phúc này và rồi chết đi. Sau khi chết đi, tôi tái sinh nơi đó. Tại đó, tôi có tên này, thuộc đẳng cấp này, diện mạo như thế này, ăn thức ăn này, kinh nghiệm những đau khổ và hạnh phúc này và rồi chết đi. Và sau khi chết đi, tôi tái sinh nơi này”. Này ông, khi những vị Thánh đệ tử đạt đến trạng thái tâm xả hoàn toàn trong sạch, các vị này có khả năng nhìn thấy những kiếp quá khứ của mình chi tiết như thế.
Này ông chủ hộ, khi một vị Thánh đệ tử vẫn duy trì được loại chánh niệm tối cao và trạng thái tâm xả hoàn toàn thanh tịnh trong sạch, các vị này sẽ có Thiên Nhãn Thông (dibbacakkhu) thấy rõ chúng sinh sau khi chết đi sẽ tái sinh về đâu, là người cao sang hay thấp hèn, đẹp hay xấu, may mắn hay bất hạnh tùy theo nghiệp mà họ đã tạo.
Vị này thấy rằng có những chúng sinh tạo nhiều ác nghiệp qua thân khẩu ý, chê bai những bậc cao thượng, chấp giữ tà kiến và tạo nhiều ác nghiệp do tin vào tà kiến sai lầm. Khi chết đi, khi thân hoại mạng chung, những chúng sinh này tái sinh vào cảnh giới thấp kém, vào cõi xấu, vào bốn đường ác đạo, vào địa ngục.
Vị này cũng thấy rằng có những chúng sinh tạo nhiều thiện nghiệp qua thân khẩu ý, không chê bai những bậc cao thượng, có được chánh kiến và tạo nhiều thiện nghiệp nhờ có chánh kiến. Khi chết đi, khi thân hoại mạng chung, những chúng sinh này tái sinh vào cõi hữu phúc, vào cõi chư thiên.
Nhờ vào Thiên Nhãn Thông thanh tịnh trong sạch và siêu phàm, một vị Thánh đệ tử thấy rõ chúng sinh chết đi và tái sinh nơi đâu, cao sang hay thấp hèn, đẹp hay xấu, may mắn hay bất hạnh tùy theo nghiệp mà họ đã tạo như thế.
Và rồi với loại chánh niệm tối cao và trạng thái tâm xả hoàn toàn thanh tịnh, một vị Thánh đệ tử chứng đắc Lậu Tận Thông (āsavakkhaya ñāṇa) hay biết qua kinh nghiệm thực chứng rằng tâm này đã đạt đến giải thoát và an trú trong giải thoát. Một loại giải thoát phát sinh từ trí tuệ khi mọi lậu hoặc, ô nhiễm đã bị diệt tận.
Này ông chủ hộ, các vị Thánh đệ tử (của Như Lai) cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo như thế. Này ông chủ hộ, ông có cắt đứt chuyện đời như các vị Thánh đệ tử này chăng?
– Thưa Ngài, con là ai mà có thể cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo như thế? Còn lâu lắm con mới được như vậy!
Thưa Ngài, trước kia con vẫn nghĩ rằng những đạo sĩ thuộc các tôn giáo khác là dòng thuần chủng, dù họ không phải là dòng thuần chủng. Và con đã dâng cúng cho họ phần thức ăn dành cho dòng thuần chủng, dù họ không phải là dòng thuần chủng. Con đã đặt họ vào địa vị của dòng thuần chủng, dù họ không phải là dòng thuần chủng.
Nhưng với chư tăng dòng thuần chủng, con lại cho rằng các vị không phải là dòng thuần chủng. Và con đã dâng cúng phần thức ăn không dành cho dòng thuần chủng, dù các vị là dòng thuần chủng. Con không đặt các vị vào địa vị của dòng thuần chủng, dù họ là dòng thuần chủng.
Nhưng hôm nay, con biết những đạo sĩ thuộc các tôn giáo khác không là dòng thuần chủng đúng như họ là vậy. Con sẽ dâng cúng phần thức ăn không dành cho dòng thuần chủng vì họ không là dòng thuần chủng. Con không đặt họ vào địa vị của dòng thuần chủng vì họ không là dòng thuần chủng.
Với chư tăng dòng thuần chủng, con hiểu rằng các vị là dòng thuần chủng. Con sẽ dâng cúng phần thức ăn dành cho dòng thuần chủng vì các vị là dòng thuần chủng. Con đặt các vị vào địa vị của dòng thuần chủng, vì họ là dòng thuần chủng. Thưa Đức Thế Tôn, Ngài đã truyền cảm hứng cho con, làm cho con yêu quý các bậc tu hành, có đức tin nơi các bậc tu hành và tôn kính các bậc tu hành.
Tuyệt vời thay, thưa Đức Thế Tôn! Bằng nhiều cách thức khác nhau, Ngài làm sáng tỏ giáo pháp như thể đặt lại món đồ bị úp ngược, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, cầm đèn soi rọi đêm đen để những ai có mắt có thể nhìn thấy rõ. Thưa Đức Thế Tôn, xin cho con được quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tăng. Xin Ngài nhớ đến con như một Phật tử nam quy y với Ngài kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
GIẢI THÍCH:
Trong bài kinh này, chữ “saṁyojana” được dịch là pháp chướng ngại, nhưng các dịch giả khác có thể dùng một danh từ khác. Vì các danh từ Phật pháp chuyên môn được dùng trong dịch thuật có khác nhau dưới dạng Hán, Nôm, Việt… xưa (chướng ngại, lậu hoặc…) và nay, dưới đây là danh sách những pháp bất thiện hay những ô nhiễm trong tâm bằng tiếng Pāḷi có phần tiếng Việt để tham khảo.10Theo Vi Diệu Pháp Toát Yếu Abhidhammattha Saṅgaha, chương Samuccaya Saṅgaha Vibhāgo, có tham khảo bản dịch Việt của dịch giả Phạm Kim Khánh. Đức Phật dạy những pháp bất thiện hay những ô nhiễm trong tâm này cần được loại trừ trong quá trình tu tập tiến đến giải thoát.
• CATTĀRO ĀSAVĀ: kāmāsavo, bhavāsavo, diṭṭhāsavo, avijjā savo – bốn Lậu Hoặc gồm tham dục (Dục Lậu), tham muốn tái sinh (Hữu Lậu), tà kiến (Kiến Lậu) và vô minh (Vô Minh Lậu).
• CATTĀRO OGHĀ: kāmogho, bhavogho, diṭṭhogho, avijjogho – bốn Cơn Lụt (Bạo lưu) gồm tham dục, tham muốn tái sinh, tà kiến và vô minh.
• CATTĀRO YOGĀ: kāmayogo, bhavayogo, diṭṭhiyogo, avijjā yogo – bốn Trói Buộc gồm tham dục, tham muốn tái sinh, tà kiến và vô minh.
• CATTĀROGANTHĀ: abhijjhā kāyagantho, vyāpādo kāyagantho, sīlabbataparāmāso kāyagantho, idaṁ saccābhiniveso kāyagantho – bốn Thắt Chặt gồm thắt chặt vào tham dục, thắt chặt vào sân hận, thắt chặt vào lễ nghi và nghi thức sai lầm, thắt chặt vào tư kiến cho rằng “chỉ có đây là chân lý”.
• CATTĀRO UPĀDĀNĀ: kāmupādanaṁ, diṭṭhupādānaṁ, Sīlabbatupādānaṁ, attavādupādānaṁ – bốn Chấp Thủ gồm chấp thủ tham dục, chấp thủ tà kiến, chấp thủ những lễ nghi và nghi thức sai lầm và chấp thủ vào ngã kiến.
• CHA NĪVARAṆĀNI: kāmacchandabnīvaraṇaṁ, byāpāda nīvaraṇaṁ, thīnamiddha nīvaraṇaṁ, uddhaccakukkucca nīvaraṇaṁ, vicikicchā nīvaraṇaṁ, avijjā nīvaraṇaṁ – Sáu Triền Cái (chướng ngại) gồm tham dục, sân hận, dã dượi hôn trầm, phóng dật lo âu, hoài nghi và vô minh.
• SATTĀNUSAYĀ: kāmarāgānusayo, bhavarāgānusayo, paṭighānusayo, mānānusayo, diṭṭhānusayo, vicikicchānusayo, avijjānusayo – Tùy Miên (ô nhiễm ngủ ngầm) gồm tham ái nơi dục lạc, tham muốn tái sinh, sân hận, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi và vô minh.
• DASA SAṀYOJANĀNI: kāmarāgasaṁyojanaṁ, rūparāga saṁyojanaṁ, arūparāga saṁyojanaṁ, paṭighasaṁyojanaṁ, mānasaṁyojanaṁ, diṭṭhisaṁyojanaṁ, Sīlabbata parāmāsa saṁyoja-naṁ, vicikicchāsaṁyojanaṁ, uddhaccasaṁyojanaṁ, avijjā saṁyojanaṁ, Suttante. Theo tạng Kinh, có mười Chướng Ngại (dây trói buộc): tham muốn dục lạc, tham muốn tái sinh cõi Sắc giới, tham muốn tái sinh cõi Vô Sắc giới, sân hận, ngã mạn, tà kiến, chấp thủ những lễ nghi và nghi thức sai lầm, hoài nghi, phóng dật và vô minh.
• APARĀNI DASA SAṀYOJANĀNI: kāmarāgasaṁyojanaṁ, bhavarāgasaṁyojanaṁ, paṭigha saṁyojanaṁ, mānasaṁyojanaṁ, diṭṭhisaṁyojanaṁ, Sīlabbataparāmāsa saṁyojanaṁ, vicikicchāsaṁyojanaṁ, issāsaṁyojanaṁ, macchariyasaṁyojanaṁ, avijjā saṁyojanaṁ, abhidhamme. Theo Vi Diệu Pháp có mười Chướng Ngại (dây trói buộc) với chút khác biệt: tham muốn dục lạc, tham muốn tái sinh, sân hận, ngã mạn, tà kiến, chấp thủ những lễ nghi và nghi thức sai lầm, hoài nghi, ganh tỵ, keo kiệt và vô minh.
• DASA KILESĀ: lobho, doso, moho, māno, diṭṭhi, vicikicchā, thīnaṁ, uddhaccaṁ, ahirikaṁ, anottappaṁ – mười Ô Nhiễm: tham ái, sân hận, si mê, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật, không hổ thẹn (tội lỗi) và không ghê sợ (hậu quả của tội lỗi).
Nói về bốn Cơn Lũ Lụt hay bốn Bạo Lưu (oghā), kinh điển định nghĩa: gọi là cơn lụt vì nó nhận chìm chúng sinh trong biển luân hồi, không cho vượt lên giải thoát. Gọi là cơn lụt vì nó ào ạt cuốn trôi những ai đang mê ngủ nên người trí phải luôn tỉnh thức cho đến khi đến bến bờ bên kia (giải thoát), nơi cơn lũ không còn. Người vượt qua cơn lũ lụt đến bờ bên kia gọi là Oghatiṇṇa. Trong bốn Cơn Lũ Lụt này, lụt tà kiến bao gồm 62 tà kiến và lụt vô minh là không biết bốn Diệu Đế.
- 1Theo Chú giải (MA 3:34), chữ “Aṅguttarāpa” gồm “aṅga” có nghĩa là đất nước (janapada) và địa danh “Uttarāpa”. Uttarāpa nằm ở phía bắc sông Mahī. Gọi là phố “Āpaṇa” vì nơi đây có nhiều cửa tiệm và gian hàng tạp hóa.
- 2Đến đây, thái độ của Potaliya thay đổi. Ông bắt đầu tỏ vẻ tôn kính Đức Phật.
- 3“Agiddhi lobhaṁ nissāya, giddhi lobho pahātabbo”. Theo Chú giải, “giddhi lobha” có nghĩa là tham ái có gốc tham, từ tham mà sinh khởi (gedha bhūto lobho, MA 3:39).
- 4“Anindā rosaṁ nissāya, nindāroso pahātabbo” (nindā: đáng trách, rosa: sân hận, giận dữ, bực bội và anindā: không sân).
- 52 Saṁyojana: 10 lậu hoặc (trói buộc, chướng ngại, kiết sử) gồm: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), giới cấm thủ (sīlapataparāmāssa), tham ái ngũ trần (kāmarāga), ác ý (paṭigha), tham muốn tái sinh cõi Sắc giới (Rūparāga), tham muôn tái sinh cõi Vô Sắc giới (Arūparāga), ngã mạn (māna), phóng dật (uddhacca), vô minh (avijjā). Nơi đây, sát sinh được gọi là lậu hoặc hay trói buộc (dù không được liệt kê trong danh sách 10 lậu hoặc) vì nó níu kéo, trói buộc chúng sinh trong sinh tử luân hồi, cản trở sự tiến bộ giải thoát (theo Chú giải MA 3:40).
- 6Vì điêu luyện, nên người đồ tể này có thể khéo léo cắt, xẻ, và lóc mảng thịt một cách tài tình, nên không có miếng thịt nào còn dính lại trên khúc xương.
- 7“Hạnh phúc trần gian” hay “ngũ dục” gồm: cảnh đẹp, âm thanh hay, mùi thơm, vị ngon, sự xúc chạm qua thân đem đến cảm giác hài lòng.
- 8Uppekkhā nānatta: tâm xả liên quan đến ngũ dục trần gian. Upekkhā ekatta: tâm xả liên quan đến nhất tâm (ekaggatā), đến thiền Định. Liên quan đến bài kinh này, trong Chú giải của kinh Saḷāyatana Vibhaṅga Sutta (Majjhima Nikāya 137), tâm xả của người chủ hộ (gehasitā upekkhā) là loại tâm xả có đặc tính không hay biết (vô minh) phát sinh trong tâm người chưa loại bỏ được ô nhiễm trong tâm, và ô nhiễm này sẽ sinh ra quả tốt xấu trong tương lai. Loại tâm xả này bám chặt vào hạnh phúc trần gian như ruồi bám vào miếng đường vậy. Ngược lại, tâm xả thoát ly, khước từ (nekkhamma sitā upekkhā) là loại tâm xả phát sinh do có được tuệ Minh Sát. Hướng tâm đến sự buông bỏ và xa rời tham ái, loại tâm xả này không bám níu vào đối tượng đẹp đẽ, quyến rũ cũng không chê bỏ đối tượng xấu xa.
- 9Theo Chú giải, “loại tâm xả an tịnh, tập trung” này chính là tâm xả trong Tứ thiền, trong đó, bốn chi thiền Tầm, Tứ, Hỷ và Lạc đã bị loại trừ, chỉ còn lại chi thiền Nhất Tâm (ekagatta) phát sinh với thọ xả.
- 10Theo Vi Diệu Pháp Toát Yếu Abhidhammattha Saṅgaha, chương Samuccaya Saṅgaha Vibhāgo, có tham khảo bản dịch Việt của dịch giả Phạm Kim Khánh.
- BÀI KINH VỀ NGƯỜI CHĂN GIA SÚC
- BÀI GIẢNG CHO THIỆN NAM POTALIYA